Hệ thống thuế của Việt Nam được hình thành và phát triển trong thời kỳ “đổi mới” sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6 năm 1986. Trước đó, nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, thu Ngân sách nhà nước (NSNN) chủ yếu từ kinh tế quốc doanh, chiếm tới 90% tổng số thu.
Thời kỳ này, thuế chỉ áp dụng đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh dưới một số hình thức như: thuế doanh nghiệp, thuế hàng hóa, thuế lợi, thuế nông nghiệp, thuế môn bài…vai trò của thuế thời điểm này trong quản lý điều tiết nền kinh tế được sử dụng rất hạn chế.
Cùng với sự phát triển kinh tế sau 35 năm kể từ thời kỳ “đổi mới”, thuế giờ đây đã là nguồn thu chủ yếu cho NSNN, bên cạnh chức đảm bảo công bằng xã hội.
-
Khái niệm
Xét về mặt khái niệm, ý nghĩa, vai trò của hệ thống thuế, cho đến nay đã xuất hiện nhiều quan điểm khác nhau. Theo các nhà kinh tế học, một trong những khái niệm cổ điển về thuế đó là: “Thuế là một khoản đóng góp bằng tiền, có tính chất xác định và không hoàn trả trực tiếp do các công dân đóng góp cho nhà nước thông qua con đường quyền lực nhằm bù đắp các khoản chi tiêu của nhà nước trong việc thực hiện các chức năng kinh tế – xã hội.”
Trên góc độ phân phối thu nhập thuế được hiểu là hình thức phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân nhằm hình thành nên quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của nhà nước (quỹ NSNN) để đáp ứng nhu cầu chi tiêu cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
Trên góc độ người nộp thuế thì thuế được cho là khoản đóng góp bắt buộc mà mỗi tổ chức, cá nhân phải có nghĩa vụ đóng góp cho nhà nước theo luật định để đáp ứng nhu cầu chi tiêu cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước, người đóng thuế được hưởng hợp pháp phần thu nhập còn lại.
Trên góc độ kinh tế học, thuế được định nghĩa là biện pháp đặc biệt, theo đó, nhà nước sử dụng quyền lực của mình để chuyển một phần nguồn lực từ khu vực tư sang khu vực công nhằm thực hiện các chức năng kinh tế – xã hội của nhà nước.
-
Đặc điểm thuế
Mặc dù thuế có nhiều khái niệm khác nhau nhưng hệ thống thuế của bất kỳ quốc gia nào cũng có một số đặc điểm chung, cụ thể như sau:
- Thuế là khoản đóng góp bằng tiền
Về nguyên tắc, thuế là một khoản đóng góp dưới hình thức tiền tệ. Điều này trái ngược với các hình thức thanh toán bằng hiện vật đã tồn tại trước đây.
Sự phát triển của quan hệ hàng hóa – tiền tệ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của thuế, đổi lại, nghĩa vụ của đối tượng nộp thuế được thực hiện bằng tiền lại góp phần thúc đẩy sự phát triển của kinh tế thị trường.
- Thuế là khoản đóng góp bắt
Dù thực hiện dưới hình thức nào, thuế vẫn thể hiện tính chất bắt buộc, được thực hiện thông qua quyền lực nhà nước (qua hệ thống, chính sách pháp luật về thuế).
Do đó, đối tượng nộp thuế bắt buộc phải tuân thủ các quy định pháp luật về kê khai, nộp thuế. Đối tượng nộp thuế không thể tự mình ấn định hay thỏa thuận mức thuế mà phải chấp nhận mức thuế và thời hạn nộp thuế theo quy định của pháp luật.
Đối tượng nộp thuế vi phạm luật sẽ bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hoặc cưỡng chế thi hành theo quy định của pháp luật để buộc họ phải thực hiện nghĩa vụ nộp thuế. Đây là điểm khác biệt giữa thuế với các khoản đóng góp mang tính chất tự nguyện.
- Thuế là một khoản thu không hoàn trả trực tiếp
Khác với các khoản vay, thuế không hoàn trả trực tiếp cho người nộp thuế. Tuy vậy, một phần thuế được hoàn trả giản tiếp cho người nộp thuế thông qua các khoản phúc lợi xã hội, phúc lợi công cộng. Sự không hoàn trả trực tiếp được thể hiện cả trước và sau khi thu thuế.
Trước khi thu thuế, Nhà nước không hề cung ứng trực tiếp một dịch vụ nào cho người nộp thuế. Sau khi thu thuế, Nhà nước cũng không có sự bồi hoàn trực tiếp nào cho người nộp thuế.
Như vậy, người nộp thuế không thể phản đối việc thực hiện nghĩa vụ thuế với lý do họ sử dụng ít các dịch vụ công cộng, không có quyền đòi hỏi được hưởng nhiều dịch vụ công cộng hơn so với số thuế họ phải trả vì lý do này hay lý do khác; cũng không thể từ chối nộp thuế với lý do họ đã phải thanh toán cho các khoản chi trái với nguyên tắc này.
Thuế được thu nhằm đáp ứng mọi nhu cầu chi tiêu của Nhà nước, thuế không có đối khoản cụ thể. Điều này thể hiện rõ ở cho nguồn thu từ mỗi loại thuế không được quy định gắn với mục đích chi tiêu cụ thể nào cả mà đều được sử dụng để đáp ứng nhu cầu chi tiêu chung của Nhà nước trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
-
Phân loại thuế
Căn cứ theo đặc điểm, công dụng, chức năng và vai trò của từng loại thuế đối với quá trình phát triển kinh tế, xã hội; và tùy theo mục tiêu, yêu cầu của quản lý mà thuế được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau, từ đó nhằm sử dụng phát huy vai trò tích cực của từng công cụ thuế trong quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Có một số cách phân loại chủ yếu sau:
- Theo thẩm quyền đánh thuế
Theo thẩm quyền đánh thuế, thuế được phân loại thành thuế trung ương và thuế địa phương. Cách phân loại này chỉ tồn tại các quốc gia có phân quyền tự chủ về ngân sách về thuế cho các địa phương. Cụ thể:
- Thuế Trung ương
Loại thuế do chính quyền trung ương ban hành và được thu nộp vào ngân sách trung ương, ví dụ như tại Hoa Kỳ, thuế này được gọi là thuế liên bang (federal tax).
- Thuế địa phương
Loại thuế do chính quyền địa phương ban hành và được thu nộp vào ngân sách địa phương. Tùy theo cách thức tổ chức chính quyền của một quốc gia có thể có nhiều cấp độ thuế địa phương, chẳng hạn như: thuế bang, thuế vùng, thuế tỉnh… Ở Hoa Kỳ, thuế này được gọi là là thuế tiểu bang (state tax), có sự áp dụng khác nhau giữa các tiểu bang.
Tại Việt Nam, Nhà nước được xây dựng theo nguyên tắc tập trung dân chủ: Trung ương thống nhất ban hành pháp luật, chính sách, các cấp chính quyền địa phương không được phép ban hành và quản lý thu các loại thuế riêng.
Tất cả các nguồn thu thuế do Nhà nước thống nhất quản lý và việc phân bổ nguồn lực cho các địa phương, phân chia các nguồn thu từ thuế trên địa bàn được thực hiện theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước. Vì vậy, hiện nay ở Việt Nam không tồn tại thuế trung ương và thuế địa phương.
- Theo cơ sở tính thuế
Theo cơ sở tính thuế, hệ thống thuế được chia thành 3 nhóm: thuế thu nhập; thuế tiêu dùng; và thuế tài sản.
- Thuế thu nhập
Loại thuế đánh vào phần thu nhập thu được của các tổ chức và cá nhân. Cơ sở tính thuế thu nhập là phần thu nhập thu được trong một thời kỳ nhất định của người nộp thuế.
- Thuế tài sản
Loại thuế đánh vào phần thu nhập tích trữ dưới dạng tài sản. Cơ sở thuế tài sản là giá trị của tài sản mà người nộp thuế có quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng. Thuế trước bạ, thuế thừa kế, thuế nhà đất là các ví dụ về loại thuế này. Thực tế, không phải mọi tài sản đều bị đánh thuế.
Nhà nước thường đánh thuế vào những tài sản có giá trị lớn và có thể kiểm soát được. Tuy cơ sở thuế là giá trị của tài sản nhưng bản chất chính là phần thu nhập đã được tạo ra trong quá khứ của người nộp thuế.
Thuế tài sản luôn là chủ đề gây tranh cãi trong các cuộc thảo luận. Một số quan điểm cho rằng thuế tài sản là cần thiết, một số khác lại phản đối vì cho rằng thuế này đánh trên tài sản hình thành trước kia và khi đó chúng đã phải chịu thuế.
- Thuế tiêu dùng
Loại thuế đánh vào phần thu nhập đem tiêu dùng ở hiện tại của người nộp thuế. Cơ sở thuế tiêu dùng là phần thu nhập có được hoặc sẽ có được của người nộp thuế đem tiêu dùng ở hiện tại. Thuế GTGT, thuế TTĐB, và thuế xuất khẩu là những ví dụ về thuế tiêu dùng.
- Theo phương thức đánh thuế
Theo phương thức đánh thuế, thuế được phân loại thành thuế trực thu và thuế gián thu.
- Thuế trực thu (direct tax)
Loại thuế thu trực tiếp vào khoản thu nhập, lợi ích thu được của các tổ chức kinh tế hoặc cá nhân. Thuế trực thu là loại thuế mà người, hoạt động, tài sản chịu thuế và nộp thuế là một. Thuế trực thu trực tiếp điều tiết thu nhập hoặc tài sản của người nộp thuế. Thuế TNDN, thuế TNCN là những ví dụ về thuế trực thu.
Do thuế trực thu trực tiếp điều tiết vào thu nhập, tài sản của tổ chức và cá nhân, có xem xét đến hoàn cảnh, điều kiện và khả năng đóng góp của người nộp thuế nên nó rất có tác dụng trong việc điều tiết thu nhập, góp phần giảm bớt sự chênh lệch về thu nhập và tài sản giữa các tầng lớp dân cư.
Mặc dù vậy, thuế trực thu có hạn chế lớn là dễ gây phản ứng từ phía người nộp thuế hoặc dễ xảy ra tình trạng trốn, lậu thuế nếu quy định mức thuế suất cao. Ngoài ra, theo dõi, tính toán và thu thuế phức tạp, đặc biệt là thuế TNCN với diện thu thuế rộng.
Vì vậy, nếu không có biện pháp quản lý thu thuế hiệu quả thì dễ dẫn đến hạn chế tác dụng của loại thuế này trong việc tập trung số thu đầy đủ, kịp thời về cho NSNN và tạo sự công bảng xã hội.
- Thuế gián thu (indirect tax)
Loại thuế được cộng vào giá, là một bộ phận cấu thành của giá cả hàng hóa. Thuế gián thu là hình thức thuế gián tiếp qua một đơn vị trung gian (thường là các doanh nghiệp) để đánh vào người tiêu dùng.
Ví dụ, Chính phủ đánh thuế vào doanh nghiệp (doanh nghiệp nộp thuế) và doanh nghiệp lại chuyển thuế này vào chi phí tính vào giá hàng hóa và dịch vụ, do vậy đối tượng chịu thuế là người tiêu dùng cuối cung. Thuế GTGT, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế TTĐB… là thuế gián thu.
Khác với thuế trực thu là người nộp thuế chính là người phải chịu thuế, nhưng với thuế gián thu, người nộp thuế và người chịu thuế (người trả thuế) không đồng nhất.
Do điều tiết một cách gián tiếp vào thu nhập của người tiêu dùng thông qua Cơ chế giá nên với thuế gián thu, người chịu thuế (người tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ) ít có cảm giác bị Nhà nước đánh thuế. Vì vậy, loại thuế này cũng ít gây ra những phản ứng từ phía người chịu thuế mỗi khi Chính phủ có chủ trương tăng thuế.
Sự phân biệt giữa thuế trực thu và thuế gián thu chi rõ ràng ở góc độ pháp lý, tức là theo quy định của pháp luật thì người nộp thuế có là người chịu thuế không hay người nộp thuế là người phải có trách nhiệm kê khai, nộp thuế cho một người khác.
Dưới góc độ kinh tế, gánh nặng thuế thực sự do ai chịu không phụ thuộc vào đó là thuế trực thu hay thuế gián thu mà phụ thuộc vào độ co giãn của cung cầu hàng hóa, dịch vụ.
- Theo mối quan hệ giữa thuế mới thu nhập
Cách phân loại này xét mối quan hệ tỷ lệ giữa số thuế phải gánh chịu với thu nhập của người chịu gánh nặng thuế. Cách phân loại này cho thấy gánh nặng thuế được phân bổ cho đối tượng nào là chính, cho người nghèo hay cho người giàu. Nó phản ánh phần nào tính công bằng của các sắc thuế.
Theo cách phân loại này, thuế được chia thành 3 loại: Thuế lũy tiến, thuế lũy thoái và thuế tỷ lệ.
- Thuế lũy tiến
Loại thuế mà tỷ lệ phần trăm số thuế gánh chịu so với thu nhập của người chịu thuế tăng lên khi thu nhập tăng. Tiêu biểu cho loại thuế này là thuế TNCN trong trường hợp áp dụng biểu thuế lũy tiến đối với thu nhập. Đối với thuế lũy tiến, người giàu chịu thuế nhiều hơn người nghèo.
- Thuế lũy thoái
Loại thuế mà tỷ lệ phần trăm số thuế phải gánh chịu so với thu nhập của người chịu thuế giảm đi khi thu nhập tăng. Tiêu biểu cho loại thuế này là thuế GTGT, thuế TTĐB. Với loại thuế này, người nghèo chịu thuế nhiều hơn người giàu.
Ví dụ, với thuế GTGT, bất kể người tiêu dùng là người giàu hay người nghèo, thu nhập cao hay thấp, nếu cùng tiêu dùng một lượng hàng hóa, dịch vụ như nhau thì cũng phải chịu một mức điều tiết thuế như nhau (cùng thuế suất thuế GTGT).
Số thuế này nếu so với thu nhập của người giàu và người nghèo thì rõ ràng chúng mang tính lũy thoái: tỷ lệ giữa tiêu dùng so với thu nhập của người nghèo cao hơn tỷ lệ này của người giàu, và đương nhiên tỷ lệ giữa thuế gián thu so với tổng thu nhập của người nghèo lớn hơn người giàu.
- Thuế tỉ lệ
Loại thuế mà tỷ lệ phần trăm số thuế phải gánh chịu so với thu nhập của người chịu thuế không đổi khi thu nhập tăng. Tiêu biểu cho loại thuế này là thuế TNDN trong trường hợp sắc thuế này chỉ áp dụng một thuế suất phổ thông cho mọi mức thu nhập của người nộp thuế.
- Theo cách thiết kế mức thu
Theo cách phân loại này, thuế được phân loại thành: thuế tuyệt đối; và thuế theo giá trị.
- Thuế tuyệt đối
Loại thuế mà mức thuế được xác định bằng mức tiền tuyệt đối trên một đơn vị vật lý của đối tượng bị đánh thuế (trọng lượng, khối lượng, diện tích…), độc lập với giá trị tiền tệ của chúng. Ví dụ, mức thuế tuyệt đối áp dụng cho các loại xe chở người dưới 10 chỗ ngồi có dung tích xi-lanh dưới 1,5 lít nhập khẩu sẽ là 8,000 USD/xe.
Loại thuế này có lợi thế là rất đơn giản, không cần phải xác định giá trị của đối tượng bị đánh thuế nhưng lại có bất lợi là không thích ứng trong trường hợp tiền tệ bị mất giá. Ở một số quốc gia, loại thuế này thường được áp dụng dưới hình thức thuế rượu, bia, thuốc lá.
- Thuế theo giá trị
Loại thuế được tính toán bằng cách áp dụng một tỷ lệ (hoặc tỷ lệ %) trên cơ sở thuế. Loại thuế này là dễ thích ứng trong trường hợp lạm phát.
Đồng thời, số thuế thu được tỷ lệ thuận theo giá trị của cơ sở thuế. Có nhiều loại thuế áp dụng phương thức này, ví dụ thuế xuất khẩu đối với loại hàng hóa A là 0%.
-
Chức năng của thuế trong nền kinh tế
Thuế có 3 chức năng cơ bản, đó là: chức năng bảo đảm nguồn thu cho NSNN nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước; chức năng phân phối lại thu nhập và tài sản nhằm đảm bảo công bằng xã hội; và chức năng điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
- Nguồn thu cho ngân sách Nhà nước
Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước. Mức độ động viên các khoản thuế vào ngân sách phần lớn gắn liền với tổng số chi tiêu của của nhà nước và các khoản thu này là nguồn bù đắp chủ yếu cho các khoản chi ngân sách.
Nhưng các khoản thu này cũng không phải là nguồn bù đắp duy nhất mà bên cạnh đó, chỉ ngân sách NSNN còn được bù đắp bằng nguồn vay hoặc phát hành tiền tệ.
- Đảm bảo công bằng xã hội
Về nguyệt tắc, gánh nặng về thuế phải được phân chia một cách công bằng, thuế phải có vai trò sửa chữa những khiếm khuyết của sự phân phối lần đầu để đảm bảo sự công bằng và bình đẳng.
Tuy nhiên, sự công bằng chỉ mang tính chất tương đối và tùy thuộc vào quan niệm cho rằng sự phân phối phải công bằng hay không trong việc phân chia quyền sở hữu diễn ra trên thị trường. Vì vậy, đánh thuế lũy tiến, đối với một số người, có thể được coi như đồng nghĩa với sự công bằng, với một số người khác, lại bị coi là tùy tiện.
- Điều tiết vĩ mô nền kinh tế
Thuế là một công cụ của chính sách kinh tế có thể đóng vai trò khuyến khích, hạn chế hoặc ổn định kinh tế. Thuế có thể được sử dụng để khắc phục những bất cân bằng của thị trường. Ví dụ như, dựa trên cơ sở các phân tích kinh tế vi mô để quốc tế hoá những tác động nội tại của nền kinh tế.
Thuế cũng có thể góp phần thực hiện các cân bằng tổng thể trong khuôn khổ chính sách ngân sách dựa trên cơ sở các phân tích kinh tế vĩ mô.
Cách tiếp cận kinh tế vi mô phù hợp với cách nhìn tự do về sự can thiệp của nhà nước mà với chức năng trợ cấp ngân sách, nhà nước có thể xóa bỏ được những vật cản nảy sinh trong kinh tế thị trường. Cách tiếp cận này đôi khi cũng là trung tâm của các cuộc tranh luận.
Cách tiếp cận kinh tế vĩ mô thuộc quan niệm của Keynes về chính sách kinh tế, thuế là một công cụ mà nhà nước sử dụng nhằm ổn định tình huống (chính sách tác động trên tổng cầu) hoặc cơ cấu (chính sách thuế nhằm tạo thuận lợi cho sự tăng trưởng kinh tế).
Khả năng của thuế trong việc thực hiện các mục tiêu hiệu quả kinh tế này đã bị tranh luận khá gay gắt. Do vật, tùy theo quan điểm mà chức năng này được đánh giá cao hay thấp./.